Vị Vua trẻ nhất sử Việt: Lên ngôi khi mới 1 tuổi, là minh quân nhưng bị anh trai sát hại

Do vua cha Lê Thái Tông mất sớm, lúc mới 19 tuổi trong vụ án Lệ Chi Viên ngày 4/8/1442, chỉ 4 tháng sau vào ngày 8/12, Nhân Tông được các đại thần là Trịnh Khả, Lê Thụ và Nguyễn Xí lập lên ngôi. Khi ấy, ông được 1 tuổi 6 tháng, là vị vua lên ngôi sớm nhất trong lịch sử Việt Nam.

Lên ngôi khi mới hơn 1 tuổi

Vua Lê Nhân Tông có tên húy là Lê Bang Cơ, con thứ ba của vua Lê Thái Tông, mẹ là Nguyễn Thị Anh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông sinh ngày 9/6/1441 thì đến ngày 6/6/1442 được lập làm hoàng thái tử.

Empty

Do lên ngôi khi còn nhỏ, bà Nguyễn Thị Anh, mẹ vua được tôn làm hoàng thái hậu, phải buông rèm nhiếp chính, quyết đoán việc nước. Đến năm 1453, vua được 12 tuổi, có thể coi chính sự, thái hậu trả lại quyền chính cho vua và lui về hậu cung.

Ngay sau khi bắt đầu đích thân coi chính sự, vua ân xá cho công thần từng có tội, cứu giúp người có hoàn cảnh khó khăn. Ông mất năm 1459 do bị sát hại.

Nhận xét về vua Lê Nhân Tông, Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Vua tuổi còn ấu thơ đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú đường hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho, nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi giết hại".

Một đấng minh quân tài đức vẹn toàn

Vua Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, trị vì trong vòng 17 năm, từ năm 1442 sau khi vua Lê Thái Tông qua đời.

Sử sách mô tả Lê Nhân Tông là vị hoàng đế đức độ, coi trọng Nho học, không đam mê tửu sắc, và biết nghe can gián. Nước Đại Việt dưới thời trị vì của ông đã giữ được sự ổn định cao, kinh tế và giáo dục có sự đổi mới mạnh mẽ, đường xá, cầu cống được xây mới, nông nghiệp phát triển. Dưới thời trị vị của ông, đại quân của nhà Lê còn đánh bại vua Chiêm Bí Cai và sáp nhập xứ Bồn Man vào Đại Việt, mở mang bờ cõi.

Empty

Vua giảm sưu thuế, ban thưởng cho công thần, tiêu diệt thảo khấu, loạn đảng, bình định ngoại bang… khiến triều thần kính nể, nhân dân no ấm, đất nước phồn vinh. Ông còn độ lượng với các công thần khai quốc nhưng lỡ có tội và bị xử tử trước đây, ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Tuy nhiên, ông vẫn chưa minh oan được cho vụ án oan sai thảm khốc của Nguyễn Trãi.

Có thể nói Lê Nhân Tông là một trong những vị minh quân hiếm có trong lịch sử phong kiến Việt Nam, ông là vị vua tài đức vẹn toàn và rất được lòng dân. Tuy nhiên, vị vua nhân đức này lại bị chính anh cùng cha khác mẹ của mình là Lạng Sơn Vương – Lê Nghi Dân sát hại trong binh biến đoạt ngôi vị năm 1459 khiến bá quan và dân chúng không khỏi xót thương, oán thán.

Ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (tức 28 tháng 10 năm 1459), Nghi Dân mua chuộc được cấm vệ quân, đang đêm cùng các thủ hạ bắc thang vào tận trong cung cấm giết Nhân Tông. Hôm sau, Hoàng thái hậu cũng bị hại, lúc đó bà 38 tuổi.

Nhìn bề mặt, đây là một sự vụ tranh quyền đoạt vị, huynh đệ tương tàn, cũng quả là một sự việc bất công, một sự việc khiến người ta cảm thấy dường như Đấng tạo hóa chưa công bằng. Nhưng suy xét kĩ hơn, sự việc này không thực sự như vậy, nó rất có thể là chuyện nhân quả báo ứng từ vụ án oan Lệ Chi Viên.

Thảm án Lệ Chi Viên

Lệ Chi Viên là vụ án oan nổi tiếng lịch sử liên quan đến việc phụ hoàng của vua Lê Nhân Tông là Lê Thái Tông đột ngột qua đời vào năm 1442 tại nhà đại thần Nguyễn Trãi ở Lệ Chi Viên khi mới 20 tuổi.

Ngày 27 tháng 7 âm lịch năm 1442, vua Thái Tông đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự ở chùa Côn Sơn. Đến ngày 4 tháng 8 âm lịch vua đi chơi ở “Lệ Chi viên” (vườn Vải), xã Đại Lại, ven sông Thiên Đức thì bất ngờ băng hà. Ngay lập tức, Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ bị vu cáo tội giết vua, phải chịu tru di tam tộc.

Về sau này, vua Lê Thánh Tông đã đứng ra minh oan cho Nguyễn Trãi và chính sử ghi nhận cái chết của vua Lê Thái Tông là do đột tử. Nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng: một vị vua tuổi đời còn rất trẻ, trước đó còn thân chinh đi đánh dẹp lân bang có thể trúng gió đột tử là rất không hợp lý. Đây rõ ràng hơn là một âm mưu ám sát. Dã sử ghi lại rằng:

Trước khi mất, vua Lê Thái Tông đã truất ngôi thái tử của Lê Nghi Dân do mẹ ông là Dương phi kiêu căng, không giữ phép tắc, rồi vua lại phong cho Bang Cơ – con của bà phi Nguyễn Thị Anh lên làm thái tử. Thời điểm này, một bà phi khác là Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông) mang thai, Nguyễn Thị Anh đã tìm cách hãm hại khiến bà Ngọc Dao bị giam ở lãnh cung. Tuy nhiên Nguyễn Trãi và hiền thê Nguyễn Thị Lộ lại hết lòng bảo vệ, xin vua tha cho bà Ngô Thị Ngọc Dao.

Cùng với hiền thê của mình, Nguyễn Trãi đã đưa bà Ngọc Dao tá túc tại chùa Huy Văn (nay ở đường Chùa Bộc, Hà Nội) và hạ sinh hoàng tử Tư Thành ở đây vào ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (dương lịch 24-8-1442). Sau đó, Nguyễn Trãi thu xếp mẹ con bà Ngọc Dao ra trú ở vùng An Bang (nay là Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh), nơi ông trị nhậm với cương vị Ngự sử Đông Bắc đạo.